Cây dâu, người xưa gọi là Tang, cho nên
nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa còn gọi là nghề canh, cửi, tằm, tang.
Trong quá trình trồng dâu nuôi tằm, các vị lương y ngày xưa đã phát hiện
ra cây dâu cho tới 7 vị thuốc quý để chữa bệnh cho người, đó là:
1. Lá cây dâu, (Đông y gọi là Tang diệp), có tác dụng:
- Chữa chảy máu cam : Lấy lá dâu non, vò nhẹ và vo thành cái nút, nhét vào lỗ mũi chảy máu, máu cam sẽ ngưng chảy rất nhanh.
-
Chữa nôn ra máu: Lấy 12-16g lá dâu và 7-9 ngọn cỏ nhọ nồi (cỏ mực) sao
vàng hạ thổ, đổ 400/ml nước sắc còn 200/ml chia 2 lần uống trong ngày.
-
Chữa trẻ em đổ mồ hôi trộm: Dùng 7-9 lá dâu non, 8gam hạt sen, 6gam
Hoàng kì; nấu nước, pha thêm chút đường kính, cho bé uống ngày 2-3 lần,
mỗi lần 1/3 li cà phê nhỏ.
- Dùng lá dâu nấu với bồ kết để gội đầu, vừa sạch gàu vừa đỡ rụng tóc.
2.
Cành cây dâu, (Đông y gọi là Tang chi), có tác dụng : chữa phong thấp,
đau lưng nhức mỏi, đau khớp xương. Bài thuốc gồm có : Cành dâu 16g ; Mắc
cỡ đỏ 16g ; Cỏ xước 16g ; rễ cây bưởi bung 12g; Thiên niên kiện 12g ;
gốc và rễ cây lá lốt 16g. Tang kí sinh 12g.
Cách dùng: đổ 600ml
nước, sắc còn 300ml chia làm 2 lần uống. Chỉ cần 3-4 vị trong bài thuốc
trên là đạt yêu cầu chữa bệnh. Uống mỗi ngày một thang, uống từ 7-10
ngày sẽ thấy bệnh thuyên giảm rõ rệt.
Có người còn dùng cành dâu
nhỏ, cắt khúc, lấy dây chỉ xâu thành cái vòng để đeo vào cổ tay em bé.
Người ta cho rằng làm như vậy là để em bé sẽ đỡ khóc đêm, đỡ bị giật
mình khi ngủ.
3. Vỏ rễ cây dâu, (Đông y gọi là Tang bạch bì) dùng để trị các chứng bệnh ho khan, ho ra máu, chữa phù thũng, chữa cao huyết áp.
Cách
làm: Đào rễ dâu , bóc lấy vỏ, bỏ lõi, cạo lớp vỏ bên ngoài, ngâm nước
vo gạo 24 giờ, phơi khô rồi sao vàng hạ thổ. Mỗi lần dùng từ 10-16g. Nếu
bị ho lâu ngày, có thể cho thêm 10g vỏ rễ cây chanh (cũng sao vàng hạ
thổ), sắc uống.
Chữa phù thũng: Vỏ rễ dâu 16g; Vỏ quả cau 16g ;
Vỏ củ gừng 8g ; Vỏ phục linh 16g ; Vỏ quýt 8g. Đây là bài Ngũ bì ẩm, một
bài thuốc cổ của Đông y, chữa bệnh phù thũng rất hiệu quả. (Vỏ phục
linh hay còn gọi là Phục linh bì, có bán ở các tiệm thuốc bắc).
4.
Cây tầm gửi trên cây dâu, (Đông y gọi là Tang kí sinh). Đây là vị thuốc
đầu bảng để chữa phong thấp, nhức mỏi của Đông y. Bài “Độc hoạt kí sinh
thang” trong đó Tang kí sinh là đầu vị, là bài thuốc cổ phương để chữa
chứng đau nhức từ thắt lưng trở xuống, thường dùng chữa bệnh cho các cụ
cao tuổi. Bài thuốc gồm có: Tang kí sinh 20g; Độc hoạt 8g; Tần giao 8g;
Phòng phong 8g; Tế tân 4g; Đương quy 12g; Cam thảo 4g; Nhục quế 4g; Bạch
thược 10g; Xuyên khung 8g; Ngưu tất 16g; Sinh địa 12g; Đỗ trọng bắc
12g. Bài thuốc này khá lớn, nên khi sắc, ta đổ nước ngập thuốc khoảng
3cm, sắc còn 2 chén, chia làm 3 lần uống trong ngày. Sắc lần thứ 2 đổ
nước ngập thuốc 1cm.
Tang kí sinh còn là vị thuốc an thai, dùng
để chữa chứng động thai, như người có thai mà đau bụng, ra huyết; hay
người bị sẩy thai nhiều lần liên tiếp. Bài thuốc gồm có: Tang kí sinh
12g ; Lá ngải cứu 12g ; Cành tía tô 12g; Củ cây gai 12g.
Cách dùng: đổ 600ml nước, sắc còn 200ml chia làm 2 lần uống trong ngày.
5.
Tổ bọ ngựa làm trên cây dâu, (Đông y gọi là Tang phiêu tiêu). Theo sách
cổ thì Tang phiêu tiêu có tác dụng bổ thận, cố tinh, sáp niệu.
Cách
dùng: Tang phiêu tiêu nướng vàng, tán thành bột, ngày uống 5 gam. Hoặc
dùng: Tang phiêu tiêu 4g; Hạt sen 16g; Yếm rùa 12g; Lá dâu non 16g; Dây
lạc tiên (hơ qua lửa cho cháy hết lông) 16g. Đổ 600ml nước sắc còn
200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng để chữa chứng tiểu đêm nhiều
lần, di tinh, mất ngủ, đái dầm, phụ nữ bị bệnh bạch đới, khí hư…
6.
Trái dâu chín, (Đông y gọi là Tang thầm). Hái trái dâu đã chín thâm,
thêm vị Hà thủ ô đỏ, ngâm với rượu mà dùng, có tác dụng bổ thận và làm
cho tóc chậm bạc.
7. Sâu dâu, là loài sâu đục thân, thường nằm
trong thân cây ở đoạn gốc. Bắt sâu dâu nướng cho trẻ em ăn, có tác dụng
trị được bệnh đái dầm và chứng nghiến răng khi ngủ
Bs. Hoàng Quốc Chính
(Hội Đông y tỉnh Bình Phước)